Lạ lùng.
Người ta, những người tự cho mình là fan của Hà Nội, luôn ép hình dáng thủ đô yêu dấu theo 1 cách rất chung: dịu dàng và thơ mộng. Đó là tháp Rùa lung linh sáng trong đêm, là hồ Tây mờ ảo trong sương hay long lanh dưới ánh chiều ta, là mùi sưa đậm đà hay thướt tha những tà áo dài thong dong dưới những rặng cây phố cũ hay những quán ăn sập sệ, những quán hàng nóng ngốt, nhơ nhớp dưới những mái tôn, mái ngói.
Ừ. Công nhận Hà Nội rất hiền hòa, thành phố vì hòa bình mà lị.
Nhưng mấy ai nhận ra 1 Hà Nội rất dáng yêu giữa những ngày nắng nóng kinh hoàng.
Cái nóng của đường phố, của bê tông, hấp vào những bức tường cứ hầm hập tới tận nửa đêm, hun ấm cả 1 bồn nước rửa. Nền nhựa Asphalt bóng loang loang tựa tấm gương tráng lỗi, ảo ảnh cứ đong đưa và biến dạng không ngừng. Đến chiều tối, mấy mẹ con mới dám dắt nhau ra hóng mát, hoặc tưới những đám hoa héo rũ, lúc ý, những con gió cái đầu tiên của ngày mới chợt ùa qua, và không quên nhắc con trẻ chớ lười đi dép. Nền nhựa đường đôi chỗ chẩy nhão ra, mềm nhũn cũng không hợp với gan bàn chân người Hà Nội, trắng hồng và mỏng quẹt, chỉ quen xỏ trong giầy, mùa này mới miễn cưỡng bỏ ra đặt trên nền gạch bông mát mịn.
Cái nắng nóng của Hà Nội dí đầu mọi người chúi xuống mà không dám ngước lên tận hưởng bầu trời xanh với những gợn mây trắng, điều hiếm hoi và biến mất từ giữa mùa thu trước. Cái nóng không đòi hỏi nhưng chắc sẽ buồn với những kẻ vô ơn mà lãng quên nhanh. Mới sáng ra thôi, mặc tấm áo sơ mi vào, nhích từng tý một qua ngã tư, mồ hôi đã nhễ nhại, rỏ tong tỏng xuống mỏ ác, lấm tấm như cơm nguội dưới cùi tay, thấm đẫm cả nách lẫn bẹn. Nhưng tới trưa, dù bầu trời vẫn đứng im đó thì dòng người đã biến mất, giữa cái trong xanh của phố phường Hà Nội, cờ quạt, phông bạt có bạc màu vì nắng chói, nhưng đổi lại những kỵ sĩ độc hành cưỡi moto sẽ thấy cực kỳ hạnh phúc hít thở không khí trong lành, loãng khô nhưng đủ dùng. Cái chính là mồ hôi chẳng kịp ra nữa, chẳng kịp hôi như tên gọi của nó, mọi thứ có rỉn ra cũng tự bay hơi, đọng lại 1 lớp muối mỏng chỗ chân lông và ít váng trên da đầu dưới vành mũ.
Hà Nội không chỉ đặc trưng bởi những phố cổ phố cũ, nói vậy chung chung quá mà có khi vì cây. Giữa mùa hè râm ran tiếng ve mà chầm chậm thả ga dưới tán xà cừ hay sấu có cái thú của nó. Những nhà tâm lý học từ thời Pháp đã từng chứng minh người Hà Nội không đủ kiên nhẫn để đi bộ từ nhà tới trạm BRT gần nhất, dù cái bóng của xà cừ phủ kín cả 1 ngôi biệt thự. Họ cố gắng bù đắp cái nhược điểm ấy bằng loài cây họ lim, lá cứng và to, không héo úa dưới mặt trời dù lá non mới đâm chồi hay đã già, sắp gãy. Đến những chiếc lá rụng xuống không thấy vết răng sâu, cũng không chịu uốn mình dù chất diệp lục đã tàn úa, mà hình dáng chiếc lá chỉ còn hồn cốt, chúng anh dũng rã ra, giữ lại đường cong vênh nguyên thủy.
Những thân cây to, cao vút, che rợp cả 1 khoảnh chứ không lúp xúp như cụm bằng lăng yếu đuối và nhợt nhạt, cố lắm cũng chỉ vừa vặn đầu đít xe đỗ sát vỉa hè. Cao hơn chút là dãy phượng, hoa đỏ rực đốt cháy bầu trời, rực lửa 1 cách đĩ thõa, đã thế đám lá nhỏ phe phẩy để nắng xuyên qua dễ dàng như nước chảy qua lớp vải xô. Còn đám hoa xoan hay sưa lè tè, cánh hoa trắng nhỏ bết vào nhau như đồng lõa với cái nắng. Ấy vậy mà những cây rễ chùm ấy tới mùa bão lại ngả ra đường, đè nghiến lên mông 1 chiếc xe con, hay lả lơi dựa mình vào tường nhà hàng xóm, khiến người ta phải cưa cắt. Giữa cái nắng nóng, lúc cần nhất đám cành lá rậm rì thì chỉ còn trơ khấc thân cây khẳng khiu, què cụt.
Ừ. Có dở người thì những hiện tượng lặp đi lặp lại hàng năm ý vẫn sẽ diễn ra, nằm ngoài ý muốn, rồi nó sẽ trở thành 1 nét riêng, đặc sản mà nếu người Hà Nội mở lòng ra sẽ thấy cay cay mà cũng hay hay.
Rồi đây Hà Nội sẽ lại giống những năm 80 với cứt trâu, bò đầy đường, có khác chăng là ngồi trên chúng giờ là những anh còi ty hin, chân gần chạm đất, đầu cũng chẳng cao hơn nóc oto và mặc áo màu cứt ngựa.