Nhãn

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

30 THÁNG 4

40 năm đã qua đi mà CS vẫn tiếp tục ĂN MÀY DĨ VÃNG.

"xác ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy
những đôi mắt bệch màu hoa dại
những gương mặt trẻ măng xanh tái
những bàn tay đen đủi chai dầy
các anh ơi, đừng trách chúng tôi
các bà mạ, tha thứ cho chúng tôi
chúng tôi chẳng thể làm khác được
quả đồi cháy như một phần quả đất
bao đời người ta đã giết nhau
với các anh tôi oán hận gì đâu
nhưng còn có cách nào khác được."
(Lưu Quang Vũ)


40 NĂM SAU NGÀY THỐNG NHẤT

Chúng ta vẫn xừng xực tự trào hoành tráng, những buổi lễ như vuốt ve tự sướng nhưng khiến bao người trong nước tâm tư, vết thương lòng t người tha hương thêm rỉ máu.
Từ xưa trong lịch sử có khi nào ta kỷ niệm 2 nhà Trịnh – Nguyễn hết phân tranh, ngày đổi công chúa Huyền Trân lấy Chiêm Thành (Champa), hay nhà Mạc nhà Hồ biến mất.
Vậy mà bao năm, người Việt đánh lẫn nhau vẫn được coi là Chiến thắng, say trong máu Lạc Hồng.
Phải chăng chúng ta muốn Cấm cửa những người Việt xa xứ.
Nếu ta hiểu dân tộc Việt khác nhiều dân tộc trên thế giới. Họ coi trọng nơi chôn rau cắt rốn, họ mong ước được trở về gặp lại người thân từ thủa thiếu niên, họ khát khao cuối đời được chăm sóc mộ phần tổ tiên, họ đau khổ khi không được gặp mặt mẹ cha lúc lìa đời, nhắm mắt.
Vậy mà hết nửa đời người, gần 2 thế hệ, những con người tội nghiệp đó vẫn bị coi là thế lực thù địch, ngụy quân, ngụy quyền khát máu, lũ theo giặc bán nước, hút mủ nhân dân, trây lười lao động…
Hình ảnh những người cộng sản ngày nay như cô Tấm chặt đầu mẹ ghẻ muối dưa.
Không có tội nhưng Ác gấp vạn lần nàng Cám.
Vậy sao ta dám hân hoan 12 tỷ USD kiều hối mà trong đó đa phần do những bà con ra đi trước 1975 hay vượt biên sau đó chuyển về xây dựng đất nước. Chúng ta há mồm, ngửa tay ăn vay để đời sau trả nợ, còn trẻ em vẫn chỉ mong một bữa “Cơm Có Thịt” mà sao khó quá chừng.
BỐN MƯƠI NĂM NAY VẪN RỜI NHAU, VUI SAO NƯỚC MẮT LẠI TRÀO.

PHỎNG VẤN NHÀ VĂN VÕ THỊ HẢO

“Người Việt Nam sẽ tự động hòa hợp ngay sau khi Việt Nam giải thể chính quyền độc tài cộng sản và thay vào đó bằng một chính thể dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do và nhân quyền.

Chính thể đó sẽ phải nhìn lại quá khứ, hành động nhanh nhất có thể trả lại công bằng cho mọi người. Không một chính thể nào còn có danh dự và tự trọng mà lại từ chối hành xử như vậy.

Với người Việt Nam, nhất là những đồng bào đã phải bỏ nước ra đi ngày ấy và sau này, sẽ gạt nước mắt, đứng bên nhau trong lòng mẹ Việt, để được yêu thương, để tha thứ, để cùng thắp nén nhang cầu hồn cho những người đã khuất vì cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ngu dại.

Không thể khép lại quá khứ, không thể hòa giải nếu nhà cầm quyền không ứng xử công bằng, có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai của người dân. Nếu chỉ nói miệng mà không làm thì càng nói chỉ càng khiến ta công phẫn.

Đền lại công bằng cho những người Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa phải chịu bao mất mát đớn đau tức tưởi sau ngày 30 tháng 4, thực ra là một việc làm quá dễ dàng đối với chính quyền Việt Nam.”

"Mười năm đi Nga không bằng ba năm đi Đức ( Đông Đức), chả bằng một lúc ...... đi Sài Gòn".

( T/g: Trần Phúc Châu).

Thể theo yêu cầu của anh @Nick Havier, tôi xin đăng lại bài của mình vào ngày này năm ngoái.
Đúng cái ngày này 39 năm về trước thì tôi, đứa trẻ sinh ra tại Hà Nội, mới bước vào tuổi 16 sao thấy trong lòng hân hoan khi đài, báo và hàng xóm người ta nô nức truyền tin về một miền nam vừa được giải phóng.
Giải phóng là một từ hán việt tương tự như những từ độc lập, tự do, hạnh phúc trên cái tiêu đề của mọi văn bản thực thi tại miền bắc ngày xưa và toàn VN hôm nay nó làm cho người ta lơ tơ mơ không hiểu chính xác là gì nhưng mạnh ai nấy nói cũng như viết, gần như một con vẹt hay một cái máy.
Người ta nói và viết một cách vô thức nhiều khi đến mức nực cười như đơn xin giảm án tù vẫn có tiêu đề tự do hay đơn xin ly dị vẫn trương lên hạnh phúc.
Vậy giải phóng miền nam có thật là giải phóng và giải phóng là cái gì ?
Người ta đã dạy chúng tôi căm thù đế quốc sài lang cùng bọn bù nhìn đã lê máy chém đi khắp miền nam và đồng bào ta thì rên siết dưới gông cùm của bất công và tàn bạo, khổ đau !!!
Nhưng người ta hình như chả cần cởi bỏ gông cùm cho ai mà lao vào SG để lùng những thứ hàng hóa mà họ chưa bao giờ được nhìn thấy trong đời.
Nhưng vận may chỉ tới với các chú bộ đội cấp to chứ mấy chú kiểu như anh Thận lái xe tăng húc đổ cửa dinh Độc Lập trở xuống thì ngay sau đó đã được giải ngũ ngay về quê. Hàng triệu chú bộ đội phấn khởi trở về làng, ba lô lủng lẳng thập thò một con búp bê nhựa Sài Gòn để bắt đầu tạo lập sự nghiệp cày bừa, xe ôm, bán vé số mãi tới hôm nay.
Ngày đó đã có câu vè.
"Mười năm đi Nga không bằng ba năm đi Đức ( Đông Đức), chả bằng một lúc ...... đi Sài Gòn".
Người ta không hề cởi trói tháo cùm cho ai nhưng điều rất rõ là người ta đã đeo gông và đóng cùm cho hàng trăm ngàn người vô tội, những sĩ quan và công chức của chính quyền bị sụp đổ bởi xe tăng, đại bác và AK47.
Trước ngày miền nam được hoàn toàn giải phóng 20 năm cũng có ngày 10.10.1954, ngày giải phóng Thủ đô và miền bắc được Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về "giải phóng" rồi. Giải phóng thật ra cũng có nghĩa là người ta đã xây một cái nhà tù thật to trùm từ TQ qua đến sát đầu cầu Hiền Lương ở vĩ tuyến 17 để đóng cửa mà làm các cuộc CCRĐ long đất lở trời với khắp nơi đầu rơi máu chảy, đói rách lầm than.
Vậy thì giải phóng có thể hiểu là hôi của và cầm tù cùng đập chết không cần văn tự với kẻ không cùng giai cấp ???
Mới đây có ông trung tá CA "giải thích" với chị Tân, vợ anh Điếu Cày trong khuôn viên của một tòa án tại VN, tự do là cái con cặc.
Còn mấy mỹ từ nữa là hạnh phúc và độc lập nó có nghĩa gì hả bà con ?
Trần Phúc Châu

NIỂM TIN ĐÃ MẤT

Ngày xưa, mình luôn thấy nói là TT Nguyễn Văn Thiệu đã cuỗm đi số vàng này, bay sang Đài Loan. Té ra không phải vậy. Số vàng vẫn còn nguyên.
Thế nhưng có một thứ lớn hơn vàng, quý hơn vàng đã mất.
Đó là niềm tin.
Ngày sang Mỹ, trong một cuộc hội thảo, PTBT báo Pháp luật Việt Nam Phạm Văn Luyến đặt câu hỏi về xử lý thông tin bịa đặt, một thằng cha người Mỹ nói đại để là ở Mỹ, người ta không cấm bịa đặt, thậm chí còn mong cho đối phương bịa đặt bởi "Nếu nói dối lần đầu, anh nói có 100 người nghe, lần thứ hai sẽ chỉ còn 10 người nghe và lần thứ 3 thì chỉ còn một người duy nhất là... chính anh ta".
Quá đúng. Thật khó có niềm tin bởi MỘT SỰ THẤT TÍN, VẠN SỰ BẤT TIN và MẤT NIỀM TIN LÀ MẤT TẤT CẢ!.
http://m.vietnamnet.vn/…/bi-mat-16-tan-vang-trong-ngay-giai…

Bùi Hoàng Tám

THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Nói thật lòng, ai cũng biết việc hòa giải là quan trọng, là cần thiết, là.. và là...
Thế nhưng để hòa giải được không hề dễ.
Mình đã từng hỏi một bác sĩ viện trưởng một bệnh viện lớn ở Hà Nội, là con một liệt sĩ rằng nếu như kẻ bắn chết bố ông là bệnh nhân đang cần mổ gấp, ông sẽ thế nào?
Anh ấy lặng một hồi rồi không nói gì. Mình hiểu và chia sẻ nỗi ưu tư của anh ấy nên mình rất trọng Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi. Anh là con một liệt sĩ, bà nội là Bà mẹ Việt Nam anh hùng vì có mình bố Đỗ Trọng Khơi là con trai duy nhất.
Năm 8 tuổi, Khơi bị bệnh và liệt toàn thân. Cũng thời gian đó, bố anh hi sinh.
Thế nhưng gần đây, Khơi nhiều lần nhắc đến tinh thần hòa hợp, mong muốn gọi ngày 30/4 là Ngày thống nhất đất nước.
Liệu có bao nhiêu người như Đỗ Trọng Khơi!
Bài này được Đỗ Trọng Khơi đăng trên Fb của mình:
Các bác ơi, em là người dân thường VN, yêu tổ quốc mình, chả vị Tây cũng chả lụy Tàu, chả liên đới tới bất cứ tổ chức tổ chấy gì sất cả. Nếu nói đến chữ TỔ, thì với em duy nhất có trên môi, trong lòng là TỔ QUỐC VIỆT NAM, TỔ ẤM GIA ĐÌNH. Dạo vậy để em xin được nói thật câu này: Bỏ ngay khẩu hiệu GIẢI PHÓNG MIỀN NAM đi các bác ơi.
Vì nói cho cùng, ngay ngày tháng 4/2015 này đây, chúng ta nói "Giải phóng miền Nam" cũng là nói sai, nói xạo. Thì mới hôm trước đây thôi, tại Đà Nẵng, ông bí thư thành phố ĐN nói "Hoàng sa, phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc còn bị ngoại bang chiếm giữ...". Còn hơn thế nữa, đảo Gạc Ma, Vành Khăn, Chữ Thập...ở quần đảo Trường Sa cũng đang bị ngoại bang chiếm giữ. Hoàng Sa, Trường Sa có phải là phần lãnh thổ thuộc miền Trung, miền Nam VN không?
Hơn thế nữa nữa, ta cũng thường hay hô to khẩu hiệu "Giai phóng phụ nữ, Bình đẳng bình quyền..." Trong khi, những tháng ngày này không ít các mẹ, các chị, các em, thậm chí vợ,con gái của chúng ta vẫn đang phải đi sang nước người làm Osin, gái ở, thậm chí làm nô lệ tình dục để kiếm về những đồng lương còm cõi... Rõ là khó khăn cực nhọc, cực nhục vẫn còn đè nặng đôi vai phụ nữ VN. Chúng ta cũng chưa "giải phong" được gì nhiều cho nửa phần dân số thân thương này. Đau lắm chứ, phải không ạ?
Lại nhớ, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói, đại ý về ngày "giải phóng miền Nam", rằng : "Một nửa nước vui thì cũng có một nửa nước buồn". Thủ tướng Võ Văn Kiệt quả là người lãnh đạo đại mưu lược, có tấm lòng của một lương dân.
Qủa là vậy đấy. Xin các bác bơn bớt cái khẩu hiệu GIẢI PHÓNG đi, mà chỉ nên viết mỗi 4 chữ: THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC.
Đúng là chỉ nên viết vậy: THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC!

Bùi Hoàng Tám

VÔ CÙNG ĐAU

40 năm thống nhất, người dân được gì!?
Dầu mỏ bán từ bao nhiêu năm nay, người dân chẳng được gì. Than bán cạn kiệt bây giờ phải nhập khẩu trở lại, người dân chẳng được gì. Tài nguyên khoáng sản rừng vàng biển bạc bị bán trơ trụi, người dân chẳng được gì. Giá thuốc tây, giá xăng, giá điện cao gấp hàng chục lần thế giới tính theo thu nhập.
Tiền vay thế giới, tiền thế giới viện trợ, tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên khoáng sản dân không được hưởng gì. Đường được làm từ tiền của dân, người dân muốn đi phải trả phí cắt cổ (thấp nhất 1.500 đồng/km). Bệnh viện, trường học được xây bằng tiền của dân, nhân viên sống bằng tiền của dân nhưng người dân muốn học hành, khám chữa bệnh phải trả tiền. Nhiều người đã tự tử chết vì không có tiền chữa bệnh, tự tử chết để lấy tiền phúng viếng cho con đóng học.
Tiền của dân được đổ vào xây dựng thừa thãi sân golf, sân bay, cảng biển. Các khu công nghiệp dàn trải không sử dụng hết công suất thiết kế để hoang hóa. Tiền của dân đổ vào làm đường sá, cầu cống không có tuổi thọ, tiền của dân lại được đổ vào để sửa chữa thường xuyên. Nay thì chúng đang được "nhà nước của nhân dân" rao bán. Chỉ một thời gian nữa, những gì của nhân dân sẽ rơi vào tay những người không là nhân dân (quan chức, phe nhóm lợi ích), quần chúng nhân dân dân thực thụ chẳng còn gì tương tự như bãi biển khắp nơi bị xẻ thịt ra từng mảnh, người dân chẳng có mảnh nào, cũng như khắp đất nước, các khu vui chơi giải trí, mua sắm, cao ốc hiện đại hoành tráng, chúng không phải là của nhân dân.
Công sức, tiền của, niềm tin của nhân dân suốt 40 năm đổ vào sự nghiệp "hiện đại hóa, công nghiệp hóa" thành công cốc. "Doanh nghiệp không sản xuất nổi ốc vít", đất nước còn phải "nhập từ cái tăm, sợi chỉ". Nông nghiệp vẫn chiếm thế mạnh thì "nhập khẩu hết trừ... nông dân". "Giáo dục là quốc sách" thì nằm trong nhóm tụt hậu nhất ASEAN; năng lực cạnh tranh thì đứng chót bảng. Các tập đoàn nhà nước thua lỗ, nợ hàng triệu tỷ đồng nhưng các sếp vẫn hưởng lương khủng, vẫn siêu xe, biệt thự trong khi cùng với vô số thuế, phí, lệ phí, nợ công chất còng vai người dân.
Người dân phải sống trong môi trường ô nhiễm, ăn đồ bẩn thỉu, tẩm độc, thường xuyên bị trộm cướp, tai nạn rình rập. Đã không được hưởng bất cứ phúc lợi gì nhưng người dân còn bị ngay cả chính quyền của mình đè nén, coi thường. Chưa nói xa xôi tới "làm chủ", người dân còn chưa có cả những quyền làm người tối thiểu của mình.
Không thể thống kê xương máu của người dân đổ xuống trong "cách mạng" và trong suốt 2 cuộc chiến, không thể kể hết công lao xương máu của tiền nhân xây đắp nên non sông Việt Nam, thế mà sau 40 năm, người dân chẳng được cái gì.
Ai thử chỉ xem người dân được cái gì!? Vô cùng đau!
Nguyễn Văn Hoàng

TRƠ TRẼN, NGỘ NHẬN

"Người dân nô nức ra đường mừng 40 năm thống nhất đất nước": TRƠ TRẼN, NGỘ NHẬN.
Báo chí đưa tin, "cả nước tưng bừng phấn khởi", "người dân nô nức ra đường mừng 40 năm thống nhất đất nước".
Với "văn hóa" giết thời gian, a dua a tòng, bầy đàn thì được nghỉ người dân bò ra đường là đúng rồi, chẳng phải vì điều gì ngoài... được nghỉ. Có thống kê thăm dò những ai "ra đường mừng 40 năm thống nhất đất nước" không mà dám viết "người dân nô nức ra đường mừng 40 năm thống nhất đất nước"!? Vơ đũa cả nắm, trơ trẽn, ngộ nhận.
Với tư duy vẫn được coi là "trẻ con" của người Việt Nam thì việc người dân tụ tập ngoài đường xem ca nhạc, xem diễu binh, xem pháo hoa đơn thuần chỉ là để... xem chứ không có cái "mừng 40 năm thống nhất đất nước" lồng trong đó. Thậm chí đại đa số người dân còn không biết thứ mình đang xem những tưởng không mất tiền kia lại bằng tiền của mình chứ đừng nói là "mừng". TK 21 mà ở Việt Nam, con vật sinh ra bị quái thai còn được người dân hùa nhau đi xem, được các phóng viên đưa lên báo thì việc xem của người Việt Nam chẳng vì một cái gì ngoài... xem cả.
Cứ bảo tại sao nói ra là bị ghét, bị chửi. "Chẳng thà mình không nói, để người ta tưởng mình ngu, còn hơn mở miệng ra, để người ta không còn nghi ngờ gì nữa".
Nguyễn Văn Hoàng

NHẬN XÉT CỦA NHÀ BÁO LỪNG DANH TIM PAGE

Ngày hôm qua, tôi đi bộ ở Saigon chụp ảnh. Phải thật lòng nói rằng tôi băn khoăn khi nhìn những tấm affiche, pano vẫn còn đầy chất chiến tranh. Tôi mong được thấy nhiều hơn những tấm affiche, pano về hòa bình, thống nhất. Dân tộc VN chiến đấu để được sống trong hòa bình, phải không ?
( Tuổi Trẻ 30/4/2015 )
Nguyễn Thiện

Status một năm trước

Người ta có quyền khóc thương thể chế cũ của mình? Có!
Người ta có quyền hận thù vì đã bị cướp bóc, bị tù tội, bị giết? Có!
Nhưng trên hết nó đã là quá khứ. Hãy bắt đầu xây dựng lại những gì tốt đẹp cho thế hệ tương lai bằng chính tiếng nói hoặc năng lực của mình. Im lặng khi bạn có quyền được nói chỉ vì nỗi sợ hãi thì chính bạn không xứng đáng để khóc thương quá khứ!
Bổn Đình Nguyễn

Chiến tranh và tình dục có sự tương đồng lớn do bản chất khốc liệt của nó.

Để cổ suý tư tưởng make love not war, tôi kết hợp hai chuyên môn tình dục học và chiến tranh học nhân dịp 40 năm ngày thôi dí súng chuyển sang dí đèo.
Khi hai bên đưa ra những tuyên bố doạ dẫm để bên kia cảm thấy tới tầm mà vui vẻ nhượng bộ kiểu Bắc Hàn, ta gọi là khẩu dâm.
Nói suông không xong, phải phô bày vũ khí để chứng minh tao có khả năng tiêu diệt mày như Nga duyệt binh, ta gọi là thị dâm.
Một bé vừa ra đời như Việt Nam dân chủ cộng hoà đã bị Pháp tẩn, ta gọi là ấu dâm.
Một kẻ mang quân đi đánh thằng khác không vì chính nghĩa mà bởi dầu mỏ, thị trường như Mỹ tẩn Iraq, ta gọi là cưỡng dâm.
Hai thằng đánh nhau tơi bời như Nhật vs Mỹ, thằng yếu hơn biết thua nhưng phải thả bom nguyên tử mới chịu đầu hàng, ta gọi là khổ dâm.
Hai bạn cùng chung ý thức hệ, anh em 16 chữ 4 tốt đánh nhau, ta gọi là quan hệ đồng tính.
China và Khmer đỏ liên minh đánh Việt Nam, ta gọi là hiếp dâm tập thể.
Thời Tam quốc, ba nước đánh nhau lộn bậy, ta gọi là threesome.
Hai thằng giả bộ đánh nhau để xử lý lòng dân trong nước kiểu anh Tập kéo dàn khoan, ta gọi là thông dâm.
Anh em một nhà vì này vì nọ đánh nhau như cuộc chiến đã qua 40 năm, ta gọi là loạn luân. Vụ này đi ngược với giá trị cơ bản của con người, cần lên án và ngăn chặn.
Bùi Chọn Lọc

40 NĂM THẤY ĐẸP MÀ VẪN THẤY BUỒN

Bạn đang nghĩ gì vậy? Tôi đang nghĩ về những người lính 30 tháng Tư. Thống nhất, hòa bình họ không còn phải đánh lẫn nhau nữa. Nhưng một số ra đi mặc cảm "thiếu quê hương". Một số hân hoan quá thái với 2 từ "chiến thắng". Một hố sâu ngăn cách đang lấp dần, nhưng 40 năm vẫn chưa lấp hết. Tôi buồn.
Mấy đồng đội của tôi gặp nhau hôm qua cũng kêu "buồn". Đêm qua xem thi pháo hoa quốc tế ở Đà Nẵng (qua tivi) thấy đẹp mà vẫn thấy buồn. Nhớ cách đây gần 30 năm họa sĩ, nhà văn Khánh Trường (thiếu tá dù) mở tạp chí Hợp Lưu bên Cali với ý tưởng rất tốt, tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ra tận sân bay Phú Bài đón anh về chơi Huế. Lại nhớ nhà thơ Du Tử Lê (vốn làm báo Tiền Tuyến, QLVNCH) khi đến nhà tôi ở Huế, nói 2 lần trước về Huế định gõ của nhà tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng cứ ngại CS... Lại nhớ những câu thơ của anh lính Thiếu Khanh mà tôi tình cờ đọc được từ trước 1975 “Nếu không có con/ Biết lấy ai làm chứng cho ba đã có mặt trong đời”, và:
“Anh đi ném bom xé nát trăm miền
Rồi về dưới đó mua cành hoa nhân tạo
Sáng mồng một Tết tặng em”
( https://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2015/04/30/15700/ )
Thực ra anh không phải là lính không quân... Vậy mà mãi 37 năm sau tôi mới được gặp anh trong một hội nghị văn học quốc tế. Rồi Nguyễn Bắc Sơn ở Phan Thiết hẹn hò nhau mãi mà chưa có dịp gặp nhau...
Và nhiều văn nghệ sĩ "phía bên kia" tôi đã gặp, chẳng có cách chia gì.
Chúng tôi là những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ gặp nhau như quen nhau từ lâu lắm rồi, bởi cùng chung tâm hồn nhân văn, yêu người, yêu đời, yêu nước. Dù đã từng ở hai chiến tuyến, nhưng vẫn là con một nhà văn nghệ, con một nước máu đỏ da vàng. Có gì ngăn cách đâu. Có ai đó nói rằng, trong ngoại giao nhân dân, văn nghệ sĩ là những sứ giả tuyệt vời, đi trước cả các nhà ngoại giao. Có lẽ là vì tấm lòng chân thật và rộng mở của họ.
Bây giờ nhiều người bạn văn như vậy đều đã già. Trong một hội thảo về văn học chiến tranh do Hội Nhà văn VN tổ chức cuối năm 2014, tôi đã đề nghị nên tổ chức cho nhà văn cả "hai phía" cùng tham gia, được khá nhiều nhà văn ủng hộ, nhưng vẫn chưa làm được. Hôm đó tôi có đọc mấy câu thơ vui mà đau của nhà thơ Anh Ngọc khiến mọi người rất thú vị và ngẫm ngợi: "Ta già địch cũng già rồi/ Dắt nhau đến trước ông Trời phân bua/ Trời cười đã biết hay chưa/ Thắng thua thì cũng đều thua ông Trời”.
Buồn vậy đó, một thế hệ chiến tranh đã già, đã chết và đang chết dần theo tuổi tác mà ông Trời ấn định. Các bạn trẻ sinh sau 1975, ngày hôm nay 30 tháng Tư, bạn đang nghĩ gì vậy?
Nguyễn Trọng T

Mười năm sau chiến tranh: Cả người chết cũng bị lừa (phần 1)

Tiziano Terzani
Phan Ba dịch từ báo Der Spiegel, số 18/1985
Lời người dịch: Tiziano Terzani (1938 – 2004) là một nhà báo, nhà văn người Ý. Ông đã tường thuật 30 năm trời từ châu Á cho tuần báo Der Spiegel, là một trong những phóng viên nổi tiếng ở Đông và Đông Nam Á. Tiziano Terzani là một người có cảm tình với Việt Cộng. Ông đã từng vào rừng sống chung với Việt Cộng. Tháng 4 năm 1975, ông là một trong số ít nhà báo đã ở lại Sài Gòn, nhân chứng của thời điểm lịch sử đó. “Tôi đã rơi nước mắt”, Terzani nhớ lại. Bài báo này do ông viết nhân dịp kỷ niệm mười năm kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Tiziano Terzani (phải) đi cùng với xe tăng quân đội Bắc Việt trên đường Tự Do của Sài Gòn vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Hình: Tư liệu Terzani
Tiziano Terzani (phải) đi cùng với xe tăng quân đội Bắc Việt trên đường Tự Do của Sài Gòn vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Hình: Tư liệu Terzani
Người dân trông mạnh khỏe và vui tươi, họ mặc quần áo chỉnh tề – nhưng chỉ trên các tấm áp phích. Dưới hàng trăm bức hình tưởng tượng khổng lồ nhiều màu đó của công nhân, quân nhân và trẻ em, những người kiên quyết hay mỉm cười nhìn lên bầu trời, là từng ấy con người thật, đói ăn, rách rưới, ốm yếu, dơ dáy nhìn xuống mặt đất. Họ tìm một mẩu thuốc lá thừa, một mảnh giấy hay một cái gì đó ăn được.
Sài Gòn kỷ niệm mười năm chiến thắng của tháng Tư 1975: công sở được quét vôi mới, người bất đồng chính kiến bị bắt giam, ăn mày trên các con đường chính của trung tâm bị đày vào một trại ở ngoại ô thành phố, để họ đừng làm dơ bẩn hình ảnh chiến đấu của Sài Gòn trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Nhưng không gì có thể che đậy được sự chán ngán trên các gương mặt của đại đa số 3,5 triệu dân cư của nó.
“Đó là chiến thắng của họ, không phải của chúng tôi”, một người Sài Gòn thì thào nói với con người xa lạ. “Đối với chúng tôi thì lễ kỷ niệm này chỉ có nghĩa là bắt bớ và cúp điện. Họ cần điện để chiếu sáng chân dung của bác Hồ.”
“Họ” và “chúng tôi” – mười năm sau cuộc chiến, sự chia rẽ giữa người chiến thắng và người thua trận cũng vẫn còn không thể vượt qua được.
Chân dung các anh hùng của Chủ nghĩa Xã hội trong buổi kỷ niệm mười năm ngày chiến thắng. Hình: Philip Jones Griffiths
Chân dung các anh hùng của Chủ nghĩa Xã hội trong buổi kỷ niệm mười năm ngày chiến thắng. Hình: Philip Jones Griffiths
Trước đây mười năm, khi những chiếc xe tăng đầy bụi bặm với lá cờ Việt Cộng chạy ngang qua tòa Đại sứ quán Mỹ tiến tới dinh thự của tổng tống Thiệu bại trận, khi những người lính du kích đầu tiên, gầy gò, rụt rè, trẻ tuổi, kéo xuống đường Tự Do, con số ít ỏi của những người ngoại quốc có mặt trong lúc đó đã khóc vì mừng rỡ: một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt, Việt Nam dường như đã giành lại được độc lập, một dân tộc tái thống nhất bây giờ sẽ có hòa bình và công lý – thời đó chúng tôi tin là như vậy.
Hòa bình đã không trở lại với Đông Dương. Hàng trăm người Việt trẻ tuổi đã hy sinh trên các chiến trường Campuchia. Không có công lý, nếu như công lý khác với việc lật đổ một xã hội và thay thế một chế độ độc tài bằng một chế độ độc tài khác. Người Sài Gòn, rõ ràng là như vậy, ngày nay sống tồi tệ hơn, phải chịu đựng tình trạng thiếu năng lực và tham nhũng nhiều hơn, sợ cảnh sát nhiều hơn là trước kia.
“Cách mạng đã không thực hiện bất cứ lời hứa nào của họ”, một người bạn nói. “Ngay cả người chết cũng bị lừa.” Trên nghĩa trang cũ ở Biên Hòa, nơi nhiều người lính Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản được chôn cất ở đó, phần lớn các ngôi mộ đã bị xe ủi đất san phẳng – mặc dù chế độ mới đã tạo một nghĩa trang riêng cho những người anh hùng đã hy sinh cho cuộc cách mạng.
Đối với người sống, lời hứa hòa giải dân tộc còn được thực hiện ít hơn như thế nữa.
Trong tháng Năm 1975, một sĩ quan từ quân đội của Thiệu được lệnh đi “học tập cải tạo”. Ông mang theo mùng, bàn chải đánh răng và gạo cho 30 ngày đi trình diện; và ông cũng như tôi tin rằng sau 30 ngày ông thật sự sẽ trở về.
“Nào phải 30 ngày! Thành 3289 ngày”, bây giờ ông nói; ông còn có may mắn. Nhiều người lính, sĩ quan và nhân viên trước kia của chính quyền bại trận đã chết trong các trại cải tạo. Nhiều người vẫn còn ở trong những trại trong rừng đó, những trại mà các quan chức cộng sản ngày nay trong những khoảnh khắc bất cẩn đã gọi chúng là “trại tập trung”.
Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976. Hình: Marc Riboud
Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976. Hình: Marc Riboud
Còn bao nhiêu người Việt Nam bị giam cầm ở đó? Chính phủ đưa ra con số 7000. Có người ước đoán tới 100.000. Trong năm 1975, chế độ mới hứa hẹn cho mỗi một người Việt Nam một nhiệm vụ trong cuộc tái xây dựng đất nước đã bị tàn phá này. Ngày nay, hàng ngàn người trở về từ những trại cải tạo đó đều không có một cơ hội nào.
Cái tội lỗi thuộc về một “chế độ bù nhìn” là không thể rửa sạch được. Còn ngược lại, nó giống như một căn bệnh được di truyền từ cha sang con: không có công việc làm cho những “tên bù nhìn”, không có chỗ cho con của họ trong các trường trung học hay đại học.
Trong khi nhân viên cộng sản, toàn bộ đều từ miền Bắc, dọn vào ở trong các khu biệt thự và nhà riêng của giới thượng lưu Sài Gòn cũ thì xã hội Việt Nam bị quẳng ra đường phố và lang thang vất vưởng khốn khổ ở đó như một bộ tộc đi lạc, bị nguyền rủa phải tuyệt chủng.
Sau chiến thắng của họ ở Campuchia, tên cộng sản thời đồ đá Pol Pot và Khmer Đỏ đã phân người dân của họ ra thành hai loại: những người dân đã sống dưới sự thống trị của cộng sản trước 1975, vì vậy mà có thể tin tưởng được; và những người kia, những người đã không được hưởng lợi thế này, tức là phải chiến đấu chống lại hay còn phải tiệt trừ hoàn toàn nữa. “Những gì diễn ra ở đây trong Việt Nam cũng giống như Pol Pot quay chậm”, một người bạn ở Sài Gòn nói.
“Chúng tôi đã chết rồi, nhưng chúng tôi vẫn còn có thể bước đi. Tôi có cảm giác mình giống như một bóng ma từ một thời gian khác”, một phi công trước đây của không quân nói, người có hơn tám năm trại cải tạo ở phía sau mình và bây giờ có nhà của mình ở trên một băng ghế do Lions Clubs tặng ở dưới tượng đài kỷ niệm Trần Hưng Đạo.
Nghĩa trang máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, một trong những phi trường bận rộn nhất của thế giới trước kia. Hình: Philip Jones Griffiths
Nghĩa trang máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, một trong những phi trường bận rộn nhất của thế giới trước kia. Hình: Philip Jones Griffiths
Sài Gòn vui sống ngày xưa đầy những bóng ma từ quá khứ như thế. Có thể nhìn thấy họ ở khắp nơi: tóc dài, quần áo dơ bẩn, nhiều người có vết thương hay ung nhọt không được băng bó, có người đi tha thẩn lạc lỏng, những người khác làm các công việc khốn cùng: thiếu niên đi lang thang qua thành phố với một cái kẹp và bao tải, để nhặt giấy vụn và bao nilon. Người trung niên với vẻ mặt trí thức dùng ống tiêm bơm mực mới vào những cây bút bi cũ. Những ngưởi khác ngồi cạnh một cái nón lính đổ đầy nước và vá xe đạp.
Ở Sài Gòn có 40.000 xe xích lô. Phần lớn người lái là lính và sĩ quan cũ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu ở trước tòa nhà quốc hội cũ và ở cạnh những đài tưởng niệm của thành phố. Họ chui vào trong công sự có từ thời chiến tranh để tránh mưa. Họ thường xuất thân từ những gia đình xưa, khá giả, ở Sài Gòn và bây giờ thì thất nghiệp và vô gia cư, trở về từ “vùng kinh tế mới”, nơi mà họ bị ép buộc phải đi tới đó.
Năm 1976, người ta có thể tới thăm một vùng kinh tế mới lớn ở phía bắc của thủ đô, nơi hàng ngàn gia đình Sài Gòn cần phải biến miền đất hoang vu thành đồng ruộng dưới ngọn cờ đỏ đang bay phấp phới. Không có nước lẫn cây cỏ. Sau mười năm cố gắng, cuộc thử nghiệm đó được tuyên bố là vô vọng, người dân chạy trốn trở về thành phố. Từ đó, không còn ai nói về vùng kinh tế mới nữa. Chế độ của miền Bắc không thành công trong việc lấy được thiện cảm của người dân miền Nam. Vì thế mà mười năm sau ngày giải phóng, hai Việt Nam vẫn còn sống thù địch và nghi ngờ bên cạnh nhau.
Mười năm này cũng không mang lại sự hòa thuận cho những gia đình bị cuộc nội chiến chia cắt, tái đoàn tụ qua giải phóng. “Người anh em cộng sản của tôi đã tố cáo tôi là tư sản để cướp tài sản của tôi”, một người quen thuật lại, người trước kia đã từng sở hữu một quán ăn. “Khi tôi trở về sau ba năm ở trong tù, tường nhà tôi đầy lỗ vì hắn nghĩ rằng chúng tôi giàu lắm và đã cất dấu vàng, thứ mà hắn muốn tìm cho ra.”
Sài Gòn, Việt Nam 1985: chờ mở cửa. Hình: Philip Jones Griffiths
Sài Gòn, Việt Nam 1985: chờ mở cửa. Hình: Philip Jones Griffiths
Ở Sài Gòn, bất cứ chức vụ quan trọng nào trong hành chánh đều nằm trong tay của người Việt từ miền Bắc – bắt đầu từ người cảnh sát đứng ở ngã tư và nhân viên bưu điện, người giám sát việc bán tem thư. Đứng trước chính sách nhân sự này, người ta tự hỏi liệu chế độ cộng sản của miền Bắc có thật sự muốn hòa giải dân tộc hay không, điều mà họ đã hứa hẹn trước đây mười năm, hay là, thật lâu trước khi chiếm Sài Gòn, họ đã quyết định đánh giá toàn bộ người dân miền Nam là không thể tin tưởng được.
Người ta cũng tự hỏi, liệu Hà Nội có ý thật sự nghiêm chỉnh với việc “cải tạo” hay không, hay đó là một mưu kế để đánh đổ bộ máy quân sự và dân sự của chế độ trước đây chỉ với một cú đánh. Cuối cùng, người ta tự hỏi, rằng kế hoạch của những vùng kinh tế mới có thật sự xuất phát từ ý định tạo công việc làm mới cho dân cư thất nghiệp của thành phố hay không; hay đó là một biện pháp rẻ tiền thì nhiều hơn, để xua đuổi hàng ngàn gia đình Sài Gòn ra khỏi nhà ở của họ và trao chúng về cho các gia đình từ miền Bắc.
Thật sự là vào năm 1975, ở Nam Việt Nam có hàng ngàn kỹ sư, người tốt nghiệp đại học và người đã qua đào tạo sẵn sàng làm việc cho chế độ mới, rằng chế độ mới này đã khước từ sự cộng tác của họ: một sự lãng phí lòng nhiệt tình, khả năng và nhân tài hết sức to lớn.
Năm 1975, ở Sài Gòn có trên 2000 bác sĩ. 800 người đã ra đi với người Mỹ, phân nửa số người lúc đầu còn ở lại đã rời bỏ đất nước trong vòng mười năm vừa qua.
“Tôi không sợ nghèo khổ”, một người nói, người đã chịu đựng được và không than phiền về việc từ năm 1975 không ai trong gia đình ông đã có thể mua được một cái áo mới. “Nhưng thật khó mà chịu đựng được cái cảm giác mình là người thừa.” Ngày nay, ông kiếm tiền bằng cách dạy tiếng Anh cho người Việt đang chuẩn bị chạy trốn.
Trên một triệu người Việt đã rời bỏ đất nước của họ từ 1975, nhiều người đã liều tính mạng của họ trên biển như là “boat people”. Cả cho tới ngày nay, hàng tháng trung bình có khoảng 2000 người Việt cố gắng bỏ trốn.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét