Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017
BÁNH CHƯNG
Lại nói chuyện Bánh Chưng, bao năm ta cứ vin vào truyền thuyết Lang Liêu, vua Hùng mà phủ bức màn Huyền thoại lên Ẩm thực và Văn hóa.
Việc tranh cãi của Xã hội sẽ không dừng, mọi sự vẫn cứ Mơ màng như cả Ngàn năm qua.
Thời bộ lạc, tộc trưởng nào chả gọi là vua Hùng, con gái nào cũng gọi là Mỵ Nương, còn Lang Liêu là tên gọi chung của lũ con trai.
Thời ăn lông ở lỗ, nghèo đói, cuối năm mới chém lợn làm bánh nên mọi người cứ nhầm Bánh Chưng với Tết, dành cho Tết, như vật phẩm thờ cúng. Chứ thực ra thì đến Tết có bánh nào chả cúng. Bánh dày, bánh nếp, bánh tẻ cũng vậy.
Trước tiên, Bánh chưng là đặc trưng của văn minh lúa nước đồng bằng sông Hồng với gạo nếp và đỗ xanh, lá dong cũng là một loại mầu lẫn bao bì thực phẩm đầu tiên của nhân loại rất đặc trưng người Việt.
Sự kết hợp giữa gạo, đỗ và thịt chuyển từ màu xanh -trắng- vàng và bóng nhẫy thịt mỡ, nâu đậm thịt nạc đã đủ hiếp dâm thị giác chứ đừng nói tới cái dính dớp của nếp, mà chả cần ăn kèm thứ gì, cùng lắm có dưa hành, kết hợp vị thơm của đỗ và mặn cay, mỡ màng của thịt chính là sự kết hợp rất đặc sắc của ẩm thực Việt.
Ai cũng biết, đất Đại Cồ ta khắc nghiệt như nào, thiên tai, địch họa liên miên, trên rừng thì thú dữ, ngoài biển khơi đầy ẩn họa.... Vậy con người Việt tồn tại làm sao nếu không biết cất trữ lương thực, gói gém đồ ăn, dè xẻn mà vẫn ăn chín, uống sôi, lại sạch sẽ.
Với bánh tẻ, bánh tét...không thịt, bọc lá, hình thù từ dài tròn tới vuông vắn rất dễ dàng xếp gọn khi di chuyển, chạy trốn thậm chí ngâm giếng mát có thể để lâu.
Cái lạt được pha từ tre, giang, quá sẵn ở vùng Đông Nam Á, chẻ mỏng, ngâm kỹ chỉ vấn và cài thôi mà dai và chặt, vừa ép bánh, giữ cho lá không tở lại dễ mang vác, treo dọc đường.
Gốc người Việt là người Mường, người Thái, đến nay vẫn vậy, thay bằng nếp nương, ăn hàng ngày hay đi công tác, ngày giỗ chap, lễ tết cuối năm mới thịt lợn chêm vào.
Thời Trần kinh thành bỏ trống, Tây Sơn ra bắc đầu xuân, hay Mậu Thân năm nào đều lấy những loại bánh bọc lá làm lương thực dọc đường, để nuôi quân.
Một cái bánh đủ vài người ăn, chính lạt là dao, lá là đĩa. Người cắt khéo, biết đánh dấu mà thít đúng thứ tự sẽ không rút thịt lên, mỗi miếng đều nhau, đủ cả các vị, lạt càng mảnh thì vết cắt mịn như đôi môi mím chặt.
Nay đồ ăn thừa mứa, người Việt ta không coi trọng nữa, nhiều khi cho cũng không đắt, nhưng vẫn cúng đôi hay một cặp bánh trên bàn thờ tổ tiên, miễn là bánh phải ngon, người nhà hay tự tay gói. Thế là may, vẫn còn tý Hồn Dân tộc.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét