Tại
sao trong khi Trung Quốc cướp biển đảo nhưng Việt Nam vẫn tuyên bố giao
thương bình thường, tình trạng như dân Palestine bắn đạn, ném đá sang
Israel nhưng yêu cầu mở cửa khẩu để vào làm việc. Tuy, Việt Nam có IQ
cao thứ 2 trong Asean nhưng vẫn bị bị thương lái Trung Quốc lừa, phải
chăng IQ chỉ dùng cho những mánh lới nhỏ nhoi, mưu hèn kế bản hoặc Khôn
lỏi mà thôi.
Đó là bởi vì Việt Nam đã quá phụ thuộc vào việc nhập khẩu Hàng rẻ từ Trung Quốc, cụ thể:
Một sự lệ thuộc vào kinh tế với Trung Quốc vốn không bị những nước lân cận với Trung quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc mắc phải, mặc dù hai bên là những “Đối tác tự nhiên”. Điều đó cho chúng ta suy nghĩ về việc thay đổi tư duy, “kiểm chế sự sự hãi” với viễn cảnh giảm 10% GDP nếu từ bỏ thị trường truyền thống này. Dân tự cảnh báo thực phảm bẩn từ Trung Quốc mà “không làm gì được”, Trung Quốc tố Hoa quả Việt Nam quá cao lượng thuốc Bảo vệ Thực vật mà đành bó tay.
Những suy nghĩ ấu trí này giết chết cơ hội của Việt Nam, bởi nếu thay đổi thị trường chúng ta có thể mất 1 năm làm nên kinh tế lao đao hơn, vì mua nguyên liệu từ Úc, từ châu phi, châu Mỹ với chi phí vận chuyển cao hơn, vì hàng kém phẩm cấp bị tổn kho với số lượng lớn…
Nhưng bù lại chúng ta phải động não để có những cơ hội mới và nguồn lợi mới để khôi phục nền kinh tế trong tương lai không xa.
Hy vọng với những người Công nhân, Nông dân Việt Nam Thông minh, kinh tế Việt Nam sẽ đủ tiềm lực để xứng đáng là Cường quốc trong khu vực.
Lúc đó, những kẻ xấu chơi chẳng thể nào Bắt nạt được những người Việt Nam, vốn đã mang danh Dân tộc Anh hùng.
- 80% giống lúa lai nhập của Trung Quốc.
- Gần 50% tổng nhập phân bón là từ Trung Quốc.
- Nhập từ thiết bị cho tới điện từ Trung Quốc
- Chiếm 25% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
- Trung Quốc chiếm gần 50% tổng lượng gạo, cao su xuất khẩu của Việt Nam.
- Việt Nam chiếm gần 80% trong cơ cấu nhập khẩu điều chính ngạch của Trung Quốc.
- Nông dân Việt Nam Lười thay đổi, không dám đi đâu xa quá lũy tre làng để xem Thế giới họ làm ăn như thế nào, đặt tiêu chuẩn chất lượng thấp làm cho người dân, doanh nghiệp lười nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm kém chất lượng và không đảm bảo an toàn.
- Bản tính người Việt cũng thích “ngồi mát ăn bát vàng” do đó nhiều ngành nghề người Việt từ chối làm việc để Trung Quốc đưa lao động phổ thông của họ sang.
- Thị trường cho sản phẩm chất lượng thấp, đòi hỏi thấp của Việt Nam, không những nó không khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam mà còn làm giảm uy tín của nông sản Việt Nam, nó đánh đúng vào tâm lý “ăn sẵn” của người Việt.
- Là những người có chỉ số Thông minh IQ cao, nghĩa là rất khôn lanh, Nông dân tìm đủ mọi cách bán cho thương lái Trung Quốc từ thủy hải sản có dư lượng kháng sinh, chè “bẩn”, gạo phẩm cấp thấp…Miễn là tiết kiệm nguyên nhiên liệu, giảm chi phí, để tăng lợi nhuận. Mà thuốc trừ sâu đó có khi cũng mua từ Trung Quốc hay “phun” theo yêu cầu của thương lái Trung Quốc.
- Vì chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời, cũng như không quan tâm tới người khác mà người Việt cũng sẵn sàng hạ giá để bán bằng mọi cách. Cạnh tranh tại chính ao nhà mình, làm suy yếu chính mình.
- Việt Nam thiếu chính sách về nông nghiệp, không định hướng vùng nguyên liệu hay cam kết tiêu thụ sản phẩm, và buông lỏng việc đầu tư nông nghiệp từ các chú Khách. Không đầu tư vào khoa học hay nghiên cứu mà tìm cách ngắn nhất “đi tắt đón đầu” về công nghệ và giống lại “ngon, bổ, rẻ”. Như vậy chắc chắn sẽ chọn hàng Tầu.
- Trong kháng chiến, người dân miền bắc hết lòng tin tưởng vào những sự chỉ đạo, nhưng sau hòa bình, dân bị nghèo đói hóa trong những chính sách Hợp tác xã hay Bao cấp của chính phủ, khiến người dân phải “xoay” đủ mọi cách, mọi ngành nghề, và không tin vào Chính sách.
- Từ những sự Lừa dối trong quá khứ đó mà Dân đã mất lòng tin vào những lời hứa của các ban Ngành, đặc biệt là Nông nghiệp. Ví như việc xây dựng vùng nghuyên liệu cho Mía, Sắn phục vụ các Nhà máy chế biến. Nông dân cũng sẵn sàng chặt cây, thay đổi giống cây trồng theo xu thế của thị trường hoặc của tin đồn, mà không biết tới định hướng của ngành hoặc cam kết với Nhà máy. Do vậy, vùng nguyên liệu không ổn đình vừa gây hại cho chính những người nông dân vì thiếu hiểu biết khoa học mà phát triển những cây không phù hợp, đó là những thiệt hại cây cao su tại miền trung sao trận bão năm trước.
- Việc xây dựng Nhà máy chế biến Dưa hấu, Vải, Mía, hoa quả nói chung không khó nhưng bản thân người dân cũng không cam kết về giá với Nhà máy. Khi giá xuống, Nhà máy lại từ chối mua của Người dân do không đủ vốn để chấp nhận số lượng lớn hàng tồn kho. Khi thương lái Trung Quốc đẩy giá thu mua lên cao hơn giá thị trường từ 5-10% thì Nông dân có thể quẳng đi hết những gì gọi là “Ái quốc”. Với vùng nguyên liệu không ổn định và không cam kết lâu dài, Nông dân tự tước đi cái quyền được “chế biến sâu” đối với nông sản, do các Nhà đầu tư không dám triển khai hoặc rủi ro đầu tư những dây truyền công nghệ hiện đại với lo ngại đắp chiếu khi hoàn thành.
- Những NHNN hay NH Chính sách chỉ tập trung “cứu đói” mà ít những dự áp cấp “cần câu cơm” cho dân, từ đó dẫn đến tâm lý ỷ lại, mà Ngân hàng cũng tự nhiên điêu đứng vì khả năng thu hồi vốn gần như bằng không. Mặt khác từ hiện tượng thiếu nước ở Tây Nguyên mấy năm trước mà bao hecta Caphe, Cao su mất trắng. Còn đồng bằng sông Cửu Long, cá Da trơn việt Nam bị kiện phá giá tại Mỹ mà tồn kho không bán được. Bao nhiêu Ngân hàng TM ôm đống nợ xấu bất ngờ từ Nông nghiệp. Như chim sợ cành cong, các Ngân hàng càng thắt chặt tín dụng đối với mọi lĩnh vực Nông nghiệp, ngành quá phụ thuộc vào Thiên nhiên tại Việt Nam.
- Sản phẩm Việt Nam bị thị trường gắn cho cái nhãn giá rẻ và phẩm cấp thấp, không thương hiệu hay đủ uy tín, không thể phát triển ra ngoài thị trường truyền thống, gần như bị bó buộc vào thi trường Trung Quốc. Đến như Asean cũng hiếm thấy hàng Việt Nam chứ đừng nói tới tại Châu Âu hay Nam Mỹ.
- Khi thấy Nông nghiệp thiếu trình độ, yếu về quản lý, khi chi phối được nguồn cả cung và cầu, Tiểu thương Trung Quốc quay lại ép giá nếu mua hoặc có thể đánh sập ngành kinh tế nào đó của Việt Nam, nhẹ thì Doanh nghiệp bị thiệt thòi hoặc thua lỗ.
- Yếu về ngoại ngữ, ngoại thương, thiếu kinh nghiệm trong sản xuất lẫn thương mại và thông tin thị trường, do đó Ngành Nông nghiệp Việt nam đã quá bị động, rất khó thay đổi thị trường.
- Quan trọng nhất Xây dựng lại lòng tin, lòng tin vào cách quản lý chuẩn tắc, không tham nhũng, điều hành khoa học, tới chính sách có Chiến lược cụ thể điều mà từ BCT đến những đảng viên đã đánh mất.
- Đối với nông nghiệp, cần chấm dứt tình trạng quản canh, manh mún chỉ dừng ở giải pháp dồn điền, đổi thửa, làm sống lại những mảnh đất chết mà người dân bỏ lại tại những làng quê để ra thành phố kiếm sống. Mà cần nâng quy mô của Nông nghiệp đủ có thể áp dụng các phương tiện cơ giới, các giải pháp khoa học kỹ thuật, giảm thiểu sức người, đưa mỗi chủ trang trại lúa, khoai, trâu bò thành những ông chủ nhỏ đủ lượng sản phẩm cho sản xuất công nghiệp. Đó mới là cơ sở để Công nghiệp hóa Nông nghiệp, đủ điều kiện vùng nguyên liệu xây dựng các Nhà máy chế biến sâu..
- Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cần thực hiện “chiến lược đa dạng sản phẩm”. Khi thấy những hàng chất lượng cao có tỷ xuất lợi nhuận cao rồi những hàng phẩm cấp thấp xuất sang Trung Quốc sẽ bị “bàn tay vô hình” thu hẹp sản lượng. Đó chính là điều chỉnh cơ cấu kinh tế mà không cần những lời hô hào sáo rỗng.
- Ngoài Trung Quốc chúng ta cũng cần “đa dạng thị trường” điều này đã cơ bản thấy trong mục tiêu tham gia Asean, TTP, AFTA của Việt Nam. Để được vậy, cũng cần lấy Sản phẩm có giá trị cao, lợi nhuận cao làm mục tiêu, như Singapore đã làm với Điều, hay gạo Thái… để thâm nhập thị trường EU, Mỹ, Nhật… những thị trường khó tính nhưng chấp nhận Giá cao. Điều đó ta cũng có thể thấy từ bài học xuất cá Tra, cá Basa sang EU hay việc không xuất Cao su sang Trung Quốc của Hoàng Anh Gia Lai.
- Để đáp ứng yêu cầu chất lượng cao hơn thì bắt buộc phải đầu tư vào học tập (đến như đánh bắt cá Ngừ hàng bao đời nay nhưng vẫn bị chuyên gia Nhật Bản chê làm giảm giá trị sản phẩm), nghiên cứu, đào tạo, quản lý và công nghệ… tất cả đều cần “vốn”, việc này đòi hỏi NHNN có chính sách đúng đắn trong việc phối hợp Bộ Nông nghiệp điều hành cả Vĩ mô lẫn Vi mô.
Một sự lệ thuộc vào kinh tế với Trung Quốc vốn không bị những nước lân cận với Trung quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc mắc phải, mặc dù hai bên là những “Đối tác tự nhiên”. Điều đó cho chúng ta suy nghĩ về việc thay đổi tư duy, “kiểm chế sự sự hãi” với viễn cảnh giảm 10% GDP nếu từ bỏ thị trường truyền thống này. Dân tự cảnh báo thực phảm bẩn từ Trung Quốc mà “không làm gì được”, Trung Quốc tố Hoa quả Việt Nam quá cao lượng thuốc Bảo vệ Thực vật mà đành bó tay.
Những suy nghĩ ấu trí này giết chết cơ hội của Việt Nam, bởi nếu thay đổi thị trường chúng ta có thể mất 1 năm làm nên kinh tế lao đao hơn, vì mua nguyên liệu từ Úc, từ châu phi, châu Mỹ với chi phí vận chuyển cao hơn, vì hàng kém phẩm cấp bị tổn kho với số lượng lớn…
Nhưng bù lại chúng ta phải động não để có những cơ hội mới và nguồn lợi mới để khôi phục nền kinh tế trong tương lai không xa.
Hy vọng với những người Công nhân, Nông dân Việt Nam Thông minh, kinh tế Việt Nam sẽ đủ tiềm lực để xứng đáng là Cường quốc trong khu vực.
Lúc đó, những kẻ xấu chơi chẳng thể nào Bắt nạt được những người Việt Nam, vốn đã mang danh Dân tộc Anh hùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét